Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết về công tác dân số trong tình hình mới
SỰ ĐỔI MỚI CĂN BẢN CHÍNH SÁCH DÂN SỐ CỦA NƯỚC TA
Cho đến thập niên 60 của thế kỷ trước, mức sinh ở nước ta vẫn rất cao, bình quân mỗi bà mẹ có tới 7 con. Vì vậy, mục tiêu cốt lõi của chính sách dân số của Đảng và Nhà nước ta suốt nửa cuối thế kỷ 20 là giảm sinh, thực hiện “Mỗi gia đình chỉ có 2 con” hay thường được gọi là “đạt được mức sinh thay thế”.
Sau gần 50 năm kiên trì và đẩy mạnh kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ), đặc biệt là sau Nghị quyết số 04 - NQ/HNTW của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII về chính sách Dân số - kế hoạch hóa gia đình năm 1993, (Nghị quyết 04-NQ/HNTW), mức sinh ở nước ta đã giảm mạnh. Số con trung bình của một bà mẹ tính đến hết tuổi sinh đẻ từ năm 2006 đến nay chỉ còn khoảng 2 con, tức là chưa bằng 1/3 số con của phụ nữ cách đây nửa thế kỷ! Mô hình “gia đình 2 con” ngày càng phổ biến và trở thành chuẩn mực xã hội. Có thể khẳng định rằng, xét trên phạm vi cả nước, mục tiêu giảm sinh của chính sách dân số đã đạt được một cách vững chắc.
Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu lớn, tình trạng dân số nước ta cũng xuất hiện nhiều thách thức mới: Mức sinh có tỉnh/thành phố giảm quá sâu nhưng có tỉnh vẫn còn cao; m ất cân bằng giới tính khi sinh nghiêm trọng ; cơ cấu dân số vàng chưa được tận dụng hiệu quả; già h óa dân số nhanh; di cư, tích tụ dân số vào những đô thị lớn diễn ra mạnh mẽ; đặc biệt là chất lượng dân số tăng lên nhưng chưa cao. Mặt khác, bối cảnh kinh tế - xã hội của công tác dân số ngày nay cũng thay đổi sâu sắc. Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình, nền kinh tế đã vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 2013 có nhiều nội dung mới, trong đó nhấn mạnh quyền con người ; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nhiều thành tựu kỳ diệu thay đổi sâu sắc cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau… Vì vậy, Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tháng 10 năm 2017 đã ban hành Nghị quyết 21về công tác dân số trong tình hình mới. Hệ thống quan điểm, mục tiêu và giải pháp của Nghị quyết này là tư duy mới về nội dung chính sách dân số, nhận thức cao hơn về mối quan hệ chặt chẽ giữa dân số và phát triển; vì vậy, Nghị quyết yêu cầu tính đến mối quan hệ này trong mọi kế hoạch phát triển.
Khác với Nghị quyết 04-NQ/HNTW chỉ có một mục tiêu duy nhất là giảm sinh, Nghị quyết 21 đề ra hệ thống mục tiêu rộng lớn hơn nhiều. Đó là: “ Giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân b ổ , chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đ ư a tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững ”. Mục tiêu tổng quát này đã được cụ thể hóa bằng 24 chỉ tiêu đến năm 2030.
NHỮNG KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU
Để đạt được mục tiêu Nghị quyết 21 đề ra, gần 5 năm qua, mặc dù phải chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19, hệ thống các giải pháp vẫn được triển khai một cách đồng bộ thể hiện rõ bước chuyển trọng tâm của công tác dân số, từ KHHGĐ sang dân số và phát triển.
Trước hết, Đảng, chính quyền các cấp đã ban hành các văn bản cụ thể hóa Nghị quyết 21 cho từng lĩnh vực và thích hợp với từng địa phương. Ngay sau Nghị quyết 21, Chính phủ đã có Nghị quyết 137/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21. Trên cơ sở đó, Thủ tướng đã phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 và nhiều đề án, kế hoạch, chương trình nhằm triển khai từng hoạt động của công tác dân số, như: Truyền thông, cung cấp dịch vụ, nghiên cứu, đào tạo cán bộ,… Tại các địa phương, thành ủy, tỉnh ủy, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân đã ban hành các nghị quyết, chương trình, quyết định thực hiện công tác dân số phù hợp với đặc điểm tình hình dân số, kinh tế, xã hội địa phương.
Hiện nay, kinh phí dành cho công tác dân số do ngân sách địa phương đảm bảo. Năm 2021, ngân sách của 35 tỉnh/thành phố dành cho công tác này là 315 tỷ đồng. Đây là nỗ lực lớn của các địa phương trong bối cảnh phải dồn lực phòng chống đại dịch COVID -19. Một số tổ chức quốc tế và quốc gia tiếp tục trợ giúp Chương trình dân số Việt Nam.
Về tổ chức bộ máy làm công tác dân số, đến nay, cơ bản đã thực hiện hợp nhất cơ quan Dân số và cơ quan Y tế cùng cấp. Mô hình tổ chức mới góp phần tinh giản bộ máy quản lý, đồng thời nếu được quan tâm và chỉ đạo chặt chẽ sẽ thống nhất giữa kế hoạch và thực hiện; gắn liền truyền thông và dịch vụ; kết hợp, phát huy được các nguồn lực cho công tác dân số... Ngoài ra, để tăng cường chỉ đạo, điều hòa, phối hợp, đôn đốc giải quyết các vấn đề liên ngành, Ban Chỉ đạo Dân số và Phát triển đã được thành lập ở Trung ương và nhiều địa phương.
Truyền thông dân số có sự đổi mới căn bản. Nội dung truyền thông không chỉ bó hẹp trong phạm vi KHHGĐ mà đã mở rộng sang các chủ đề mới, như: Cơ cấu dân số vàng; nâng cao chất lượng dân số; già hóa dân số; mất cân bằng giới tính khi sinh; di cư và phân bố dân số; lồng ghép yếu tố dân số vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;… Kênh truyền thông dân số được đa dạng hóa, phát triển vượt bậc khi cán bộ dân số xã/phường cũng sử dụng mạng xã hội để chuyển tải thông điệp một cách sinh động, lan tỏa nhanh, phù hợp và hiệu quả cao. Hơn 600 tác phẩm báo chí với nhiều thể loại, phản ánh đầy đủ nội dung của Nghị quyết 21 từ mọi miền đất nước tham dự “Giải báo chí toàn quốc về công tác dân số năm 2021” là một minh chứng về đổi mới truyền thông dân số hiện nay.
M ạng lưới dịch vụ KHHGĐ, nâng cao chất lượng dân số tiếp tục p hát triển cả ở khu vực công lập và ngoài công lập đã nâng cao k hả năng tiếp cận của người dân với các dịch vụ tư vấn, khám sức khỏe trước kết hôn. Tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh tật trước sinh và sơ sinh góp phần nâng cao chất lượng dân số ngay từ giai đoạn đầu đời. Nhiều hoạt động khác, như: Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ dân số; nghiên cứu và thông tin; hợp tác quốc tế;… tiếp tục được duy trì và có bước phát triển mới.
Nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên, có thể nói Nghị quyết 21 đang đi vào cuộc sống và đã thu được một số kết quả nhất định.
Trước hết, những năm gần đây, số con trung bình của một bà mẹ vẫn dao động quanh 2,0 con. Như vậy, mục tiêu “ Duy trì vững chắc mức sinh thay thế ” hoàn toàn có thể đạt được. Không chỉ đề ra mục tiêu về số lượng, Nghị quyết 21 còn đề ra mục tiêu “nâng cao chất lượng dân số” thông qua các chỉ tiêu rất cụ thể, như: Tỉ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khoẻ trước khi kết hôn; giảm số cặp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống. Đặc biệt, đến năm 2030 phải đạt 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 bệnh bẩm sinh phổ biến nhất. Mục tiêu nhân văn này đáp ứng nguyện vọng của nhân dân nên đã được hưởng ứng nhiệt liệt. Mới chỉ sau 4 năm thực hiện Nghị quyết, năm 2021, đã có hơn 60% phụ nữ mang thai được tầm soát trước sinh và 50% trẻ sơ sinh được tầm soát bệnh, tật sau sinh. Như vậy, có thể tin tưởng rằng, những chỉ tiêu này sẽ đạt được vào năm 2030 như Nghị quyết 21 đề ra và các gia đình Việt Nam sẽ không chỉ có “2 con” mà còn là “2 con khỏe mạnh, không bệnh tật bẩm sinh, được giáo dục và đào tạo tốt”. Sự phổ biến của các chuẩn mực này cho thấy hành vi sinh đẻ của người Việt đang có sự thay đổi mang tính cách mạng: Từ tự nhiên, bản năng sang kế hoạch, khoa học, văn minh; từ bị động sang chủ động; từ số lượng sang chất lượng; từ ít trách nhiệm sang trách nhiệm cao. Điều này mang lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi gia đình và sự phát triển bền vững của đất nước.
HƯỚNG TỚI MỤC TIÊU, NHIỀU THÁCH THỨC LỚN
Tuy nhiên, để đạt được tất cả mục tiêu của Nghị quyết 21 là một thách thức rất lớn. Theo Tổng cục DS-KHHGĐ, công tác dân số năm 2021 chỉ đạt 2 trong số 11 mục tiêu được đánh giá. Hơn nữa, với kết quả như hiện nay, đến năm 2030 sẽ khó đạt nhiều mục tiêu, chẳng hạn: tỷ lệ khám sức khỏe trước kết hôn; tỷ số giới tính khi sinh; tuổi thọ bình quân; chỉ số phát triển con người (HDI)…
Để đạt được các mục tiêu dân số do Nghị quyết 21 đề ra, một mặt dựa vào sự phát triển kinh tế xã hội, mặt khác phải nỗ lực lớn, đủ sức thay đổi những tập quán ngàn năm trong hôn nhân và sinh sản. Tuy nhiên, gần 5 năm qua những nỗ lực như vậy ở nhiều ngành và địa phương là chưa đủ, nổi bật ở 3 điểm dưới đây.
Thứ nhất, về xây dựng văn bản quy pháp pháp luật. Đến nay, đã hơn 4 năm, vẫn còn 15/39 đề án, chương trình, kế hoạch,… quá thời hạn quy định 1- 2 năm nhưng vẫn chưa được ban hành theo yêu cầu của Nghị quyết 137/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21. Chưa có đề án, chương trình, kế hoạch đương nhiên nhiều hoạt động chưa được triển khai dẫn đến hạn chế kết quả thực hiện Nghị quyết.
Thứ hai, về đầu tư cho công tác dân số. Hiện nay, kinh phí dành cho công tác dân số do ngân sách địa phương đảm bảo, không có kinh phí hỗ trợ từ Trung ương. Năm 2021, chỉ có 35 tỉnh có báo cáo về ngân sách đầu tư cho công tác dân số, trong đó nhiều tỉnh đầu tư không đáng kể, bình quân mỗi người dân chưa đến 1000 đồng (chỉ riêng thực hiện mục tiêu KHHGĐ, các nước thường phải đầu tư 1USD/người). Các tỉnh còn lại không có số liệu về kinh phí hoặc đã báo cáo rõ là không được giao kinh phí từ bất kỳ nguồn ngân sách nào. Đáng chú ý là, trong số này có nhiều tỉnh thuộc địa bàn miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, vốn công tác dân số đã có nhiều khó khăn hơn các địa phương khác.
Thứ ba, về tổ chức bộ máy làm công tác dân số. Bước vào thế kỷ 21, tổ chức bộ máy làm công tác dân số thiếu ổn định, thay đổi liên tục đã ảnh hưởng lớn đến tâm tư, nhiệt huyết và sự biến động mạnh của đội ngũ cán bộ dân số. Sau Nghị quyết 21, mô hình tổ chức bộ máy vẫn chưa có sự thống nhất giữa các địa phương ở cả 3 cấp: tỉnh/thành, quận/huyện và xã/phường. Cá biệt có tỉnh không còn Chi cục DS-KHHGĐ. Mặt khác, số lượng cán bộ dân số giảm, nhất là ở cấp huyện và thường được điều động làm nhiệm vụ chung hơn là nhiệm vụ quản lý dân số. Công tác dân số đặt trong môi trường quản lý của ngành Y tế với tính chất công việc luôn khẩn cấp như cứu hỏa và xu hướng tự chủ tài chính ngày càng mở rộng dễ bị sao nhãng.
Những thách thức nói trên, suy cho cùng, phần lớn bắt nguồn từ việc chưa nhận thức đầy đủ và quán triệt sâu sắc Nghị quyết 21. Vì vậy, đẩy mạnh tuyên truyền về Nghị quyết, tăng cường kiểm tra, theo dõi, giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết nhằm thúc đẩy h oàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số ; b ảo đảm nguồn lực cho công tác dân số và k iện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dân số để bộ máy này thực sự hiệu lực, hiệu quả là những công việc cấp bách nhất hiện nay nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết 21 ./.
GS.TS Nguyễn Đình Cử